Cẩm nang xây dựng dự án nghiên cứu trong khoa học xã...
109 lượt mua
Hotline:
02466878415Năm xuất bản sách giấy: | 2025 | Năm xuất bản sách điện tử: | |
Khổ sách: | 16 x 24 | Số trang: | 528 |
Quốc gia: | Việt Nam | Ngôn ngữ: | vi |
Mã ISBN: | 9786326216356 | Mã ISBN Điện tử: | |
Loại sách: | Nhà xuất bản: | Nhà xuất bản Tri thức |
Vốn không bị ràng buộc bởi các khuôn sáo đã xác lập, không có các truyền thống phổ biến tác động, không có các lối mòn, tư tưởng xã hội học được tự do xây dựng tòa nhà xã hội học một cách độc lập, tự mình gánh vác lấy mọi hậu quả. Trong phần lớn trường hợp, tự do như vậy đem lại các kết quả tích cực. Song, bên cạnh đó, cũng xuất hiện một hiện tượng khác đã được Simmel chỉ ra chính xác: Vì xã hội học là “khoa học non trẻ, nên tất cả những vấn đề có thể và không biết để vào đâu đều được gắn cho nó, - xứ Eldorado một lần nữa lại được khám phá ra dành cho những phần tử vô gia cư và không có đất đai: tính bất định và tính không thể bảo vệ ranh giới không thể tránh khỏi ở giai đoạn đầu đem lại cho mỗi người quyền tìm kiếm nơi cư trú ở đó”. Chúng ta có thể quan sát thấy thực tế này ở khắp mọi nơi. Không có cái gì hiện nay không được gọi là xã hội học! Các lược đồ ngu xuẩn nhất, các lý luận non nớt nhất, tất cả những thứ nông cạn nhất, tất cả những thứ đẻ non nhất đều được đem ra trưng bày đầy rẫy ở thị trường tinh thần dưới tên gọi lịch lãm là xã hội học. Lẽ nào cần phải nói rằng việc lạm dụng xã hội học như vậy đang xúc phạm đến nó! Lẽ nào cần phải kiên định rằng phẩm giá của xã hội học đòi hỏi phải đấu tranh chống lại sự lạm dụng như vậy!
Lời tựa
Xã hội học hiện đại đã thoát khỏi giai đoạn cần phải chứng minh quyền tồn tại của mình. Cho dù có hay không thích điều này, thực tế vẫn cho thấy xã hội học đã và đang có ảnh hưởng mạnh nhất đến tất cả các khoa học xã hội và nhân văn, nó chiếm giữ địa vị đầu tiên trong dãy các khoa học khác và chiếm giữ vững chắc tới mức tương lai của nó không phụ thuộc vào những ý muốn nhất thời của chính quyền, vào thiên kiến của những nhà khoa học nào đó. Đó là thực tế phải ghi nhận.
Bên cạnh đó, chúng ta còn ghi nhận một thực tế khác. Bất chấp sự phát triển nhanh chóng của xã hội học ở mấy thập niên gần đây - nó vẫn tiếp tục nằm trong trạng thái “đang hình thành”. Do hàng loạt nguyên nhân, nó không kịp dừng lại ở các hình thức khuôn sáo cụ thể; đối tượng và nhiệm vụ của nó được hiểu theo các cách khác nhau, diện mạo tổng thể của tòa nhà xã hội học được phác họa theo nhiều cách khác nhau. Xét về phương diện này, xã hội học chịu chung số phận với tất cả các khoa học xã hội, mang tính khái quát: giống như các nhà luật học cho tới nay vẫn tìm kiếm định nghĩa về pháp luật, các nhà kinh tế học chính trị vẫn tiếp tục tìm kiếm định nghĩa về kinh tế và sản xuất kinh tế, các nhà tâm lý học vẫn tiếp tục tìm kiếm khái niệm về tâm lý và ý thức, thì các nhà xã hội học cũng không hoàn toàn nhất trí với nhau về đối tượng của xã hội học và các vấn đề nghiên cứu cơ bản của nó. Chỉ cần so sánh loạt sách giáo khoa và nguyên lý về xã hội học đại cương là thấy rõ điều này; bằng chứng tiếp theo là dữ liệu điều tra gần đây được Hội Xã hội học Mỹ, dưới dạng “ủy ban” gồm mười nhà xã hội học Mỹ nổi tiếng nhất, thu thập và xử lý. Tài liệu này cho thấy thậm chí cả ở Mỹ, nơi mà bộ môn xã hội học đã được thành lập sớm hơn các quốc gia khác, nơi mà xã hội học được giảng dạy không những tại các trường đại học, mà cả tại các trường trung học, nơi mà vào năm 1915, nó đã làm lễ kỷ niệm 50 tuổi của mình[1], cho tới nay vẫn chưa xác định khuôn mẫu chung trong việc xây dựng và trình bày tư liệu xã hội học[2].
Các điều kiện như vậy dẫn tới hai hệ quả cơ bản là: một mặt, chúng góp phần phát triển sáng tạo của cá nhân, mặt khác, chúng tạo điều kiện cho chủ nghĩa phiêu lưu xã hội học độc đáo phát triển thịnh vượng. Vốn không bị ràng buộc bởi các khuôn sáo đã xác lập, không có các truyền thống phổ biến tác động, không có các lối mòn, tư tưởng xã hội học được tự do xây dựng tòa nhà xã hội học một cách độc lập, tự mình gánh vác lấy mọi hậu quả. Trong phần lớn trường hợp, tự do như vậy đem lại các kết quả tích cực. Song, bên cạnh đó, cũng xuất hiện một hiện tượng khác đã được Simmel chỉ ra chính xác: Vì xã hội học là “khoa học non trẻ, nên tất cả những vấn đề có thể và không biết để vào đâu đều được gắn cho nó, - xứ Eldorado một lần nữa lại được khám phá ra dành cho những phần tử vô gia cư và không có đất đai: tính bất định và tính không thể bảo vệ ranh giới không thể tránh khỏi ở giai đoạn đầu đem lại cho mỗi người quyền tìm kiếm nơi cư trú ở đó”[3]. Chúng ta có thể quan sát thấy thực tế này ở khắp mọi nơi. Không có cái gì hiện nay không được gọi là xã hội học! Các lược đồ ngu xuẩn nhất, các lý luận non nớt nhất, tất cả những thứ nông cạn nhất, tất cả những thứ đẻ non nhất đều được đem ra trưng bày đầy rẫy ở thị trường tinh thần dưới tên gọi lịch lãm là xã hội học. Lẽ nào cần phải nói rằng việc lạm dụng xã hội học như vậy đang xúc phạm đến nó! Lẽ nào cần phải kiên định rằng phẩm giá của xã hội học đòi hỏi phải đấu tranh chống lại sự lạm dụng như vậy!
Khi chỉ ra thực tế đáng buồn như vậy, tác giả của cuốn sách này hoàn toàn không muốn nói tác phẩm của bản thân mình sẽ được bảo đảm tránh khỏi số phận đáng buồn ấy. Ngược lại, với những điều đã nói, tôi muốn cảnh báo để khi bắt tay vào đọc cuốn sách này, độc giả lưu ý đến mối nguy hiểm ấy. Trong khoa học, và thật ra chỉ trong khoa học, không có môn bài và bảo hành. Tự do phê phán và tự do tư tưởng là điều kiện đầu tiên và cơ bản của khoa học. Tòa án duy nhất ở đây là kinh nghiệm và quan sát. Nếu các trang sách được giới thiệu với độc giả mâu thuẫn với kinh nghiệm và quan sát, thì chúng xứng đáng chịu chung số phận với các lý thuyết sai lầm. Nếu các luận điểm riêng biệt trải qua được sự sát hạch công tâm và vô tư của tòa án ấy, chúng sẽ nhận được quyền quan tâm của xã hội. Theo đánh giá của bản thân tác giả, cuốn sách được tiến cử không tránh khỏi nhiều hạn chế. Những hạn chế này càng trở nên trầm trọng hơn do nó xuất hiện quá sớm và do các điều kiện chung của thời điểm. Viết Hệ thống xã hội học ở những năm cuối cùng, tác giả có dự định công bố nó muộn hơn. Tác giả có ý định ra nước ngoài, làm việc tại các thư viện phong phú ở phương Tây, trực tiếp tiếp cận với thực trạng và việc giảng dạy xã hội học ở phương Tây và Mỹ, tự mình nghiên cứu đời sống xã hội ở các nước phát triển. Chiến tranh đã cản trở và tiếp tục cản trở việc thực hiện ý định này. Tiếp theo, nhân các điều kiện chung ở nước Nga và do hoàn cảnh khó khăn của bản thân, những bản nháp, những ghi chép và nói chung tư liệu dành cho tác phẩm được tác giả thu thập trong suốt nhiều năm, một phần đã bị thất lạc, một phần không có ở Petrograd và không thể sử dụng. Các điều kiện sinh hoạt ở Petrograd năm 1919 cũng ít thuận lợi cho công việc, vì vậy cuốn sách này được viết “dựa vào trí nhớ” [1].
Tất cả những điều đó không thể không ảnh hưởng đến sự hoàn hảo về mặt khoa học của cuốn sách, không thể không làm tăng thêm những hạn chế của nó.
Mặc dù vậy, tác giả vẫn quyết định xuất bản nó bây giờ, vì khó có thể mơ ước hoàn thiện tác phẩm của mình trong điều kiện hiện tại. Trong xã hội như vậy, nơi mà cuộc sống của mỗi người chúng ta đều có thể chấm dứt bất cứ lúc nào - do đói khát, do bệnh thương hàn, do chuyên chế, không nên xây dựng các dự án khoa học lâu dài; trong xã hội như vậy, việc chỉnh sửa cẩn thận tác phẩm là sự xa xỉ không thể thực hiện, mong muốn đem lại tác phẩm biên soạn kỹ được thay thế bằng mong muốn đưa ra bản thảo khá tốt của tác phẩm này.
Bản thảo như vậy chính là Hệ thống xã hội học được tác giả công bố.
Với tất cả những hạn chế của mình, nó vẫn được chỉnh sửa hết mức, như tác giả tin tưởng, nó sẽ trở nên hữu ích trong nguồn tài liệu xã hội học rất nghèo nàn của chúng ta.
Các nguyên lý chủ đạo được sử dụng làm cơ sở cho Hệ thống xã hội học là như sau: Thứ nhất, xã hội học, với tư cách khoa học, có thể và cần phải được xây dựng giống như các khoa học tự nhiên. Khách thể nghiên cứu của các khoa học này là khác nhau, song phương pháp nghiên cứu các khách thể này là giống nhau. Theo tác giả, không thể nói đến sự đối lập nào giữa các “khoa học về tự nhiên” và các “khoa học về văn hóa” [2].
Thứ hai, xã hội học có thể và cần phải trở thành khoa học lý thuyết nghiên cứu thế giới người như nó tồn tại trên thực tế. Mọi chủ nghĩa chuẩn tắc (normative - ND) cần phải bị loại ra khỏi xã hội học như khoa học.
Chân lý cần được tách rời khỏi Thiện, Công bằng và các nguyên lý khác. Chúng là không thể so sánh và dị sinh [3]. Tất nhiên, “ai cũng thích được tâng bốc và phán xét, tự coi mình là quan tòa, song điều đó là vô bổ”[4]. Việc đưa chủ nghĩa chuẩn tắc vào lĩnh vực khoa học cho tới nay chỉ làm vấy bẩn khoa học và không đem lại kết quả tích cực nào. Hơn nữa, như tác giả cố gắng chứng minh, tất cả những luận điểm và đánh giá mang tính chuẩn tắc đều không thể là các phán đoán khoa học xét về bản chất logic của chúng[5]. Một vấn đề khác là xã hội học ứng dụng, xã hội học như nghệ thuật. Chủ nghĩa chuẩn tắc là thích hợp ở đây. Nó cấu thành bản chất của nghệ thuật xã hội học ứng dụng. Tuy nhiên, bộ môn như vậy không tạo thành khoa học, tiền đề cơ bản của nó, hơn thế nữa là tất cả các kết luận cơ bản của nó, không mang tính bắt buộc.
Thứ ba, xã hội học cần phải là bộ môn khách quan - khách quan không những theo nghĩa vắng mặt những chuẩn tắc đánh giá và theo nghĩa phương pháp nghiên cứu các hiện tượng, mà còn theo nghĩa chuyên sâu hơn của thuật ngữ này.
Xã hội học cho tới nay là khoa học chủ yếu nghiên cứu các “thực tại tâm lý”. Các thực tại này không được trực tiếp đem lại cho người quan sát, chúng không có tính chất của đối tượng vật chất. Không thể “cảm nhận, cân đo và đo lường” chúng. Tất cả những điều đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan trong xã hội học, dẫn đến những luận điểm bất định và tương đối của nó. Nhiệm vụ trước mắt là khắc phục chủ nghĩa chủ quan tâm lý này. Giống như việc nghiên cứu bản thân những quá trình tâm lý được khách quan hóa ở thời gian gần đây, giống như việc bản thân tâm lý học từ khoa học về các “trạng thái của ý thức” không thể nắm bắt chuyển biến thành khoa học khách quan về hành vi con người, hay phản xạ học, hay sinh lý học hệ thần kinh [6], thì xã hội học cũng cần phải chuyển biến dần dần từ khoa học về các “thực tại tâm lý” thành khoa học khách quan nghiên cứu những hiện tượng có “tính chất của vật thể”, có thể quan sát, có tồn tại bên ngoài xác định, cho phép “cảm giác” và “định lượng”. Chúng tôi gọi những hiện tượng như vậy là các hành vi, là các phản ứng vận động ở bên ngoài của cá nhân đang sinh sống giữa những người tương tự với mình, nói ngắn gọn hơn - những hiện tượng tương tác giữa người với người. Việc giải phóng khỏi chủ nghĩa tâm lý chủ quan là nhiệm vụ tiếp theo của xã hội học. Cuốn sách sẽ cho thấy nhiệm vụ này hiện nay chưa thể được giải quyết hoàn toàn. Song, mong muốn đủ sức giải quyết nó là cần thiết[6].
Thứ tư, vì xã hội học muốn trở thành khoa học kinh nghiệm và chính xác, nên nó cần phải chấm dứt “triết lý”. Phần lớn các sách giáo khoa xã hội học đã và đang là các khảo luận triết học tư biện - các chương chuyên sâu về triết học tự nhiên hay “triết học xã hội”, chứ không trình bày các dữ liệu kinh nghiệm và quan sát. Minh họa cho các khảo luận như vậy thậm chí có thể là tác phẩm Xã hội học thuần túy (Pure Sociology) của Lester Frank Ward. Nhiều người nhận thấy triết lý như vậy là giá trị và ưu điểm đặc biệt. Tác giả tin tưởng vào điều ngược lại. Nếu xã hội học muốn trở thành khoa học chính xác, thì nó cần phải xuất phát từ các dữ liệu, đi đến các dữ liệu và đưa ra các khái quát căn cứ trên việc phân tích cẩn thận các dữ liệu. Xét từ góc độ này, trong xã hội học không có chỗ dành cho triết lý theo nghĩa tư biện. Hãy triết lý ít hơn, hãy quan sát và phân tích cẩn thận dữ liệu nhiều hơn - đó là khẩu hiệu tiếp theo của xã hội học. Biểu đồ thống kê được tiến hành tốt có giá trị hơn mọi khảo luận “triết học xã hội” [7].
Thứ năm, đoạn tuyệt với triết lý cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với tư tưởng “nhất nguyên luận” bất hạnh - con ngoài giá thú của cuộc hôn nhân bất hợp pháp giữa xã hội học với triết học. Cách đây không lâu, đặc biệt là trong chính luận Nga, bí danh “người nhất nguyên luận” được coi là rất danh giá. Ngược lại, tên gọi “kẻ đa nguyên luận” có nghĩa là một cái gì đó đáng bị nguyền rủa và thấp hèn về mặt khoa học (Chẳng hạn, xem Vấn đề phát triển quan điểm nhất nguyên luận về lịch sử của G. V. Plekhanov). Tác giả rất sẵn sàng nhượng bộ “nhất nguyên luận” cho tất cả những ai không ngần ngại tự khoác cho mình danh dự này. Tôi tin tưởng vững chắc “nhất nguyên luận” là kết quả của triết lý giáo điều, chứ không phải là kết luận của kinh nghiệm và quan sát. Nhất nguyên luận trong xã hội học, như M. M. Kovalevsky quá cố đánh giá, thường là ý định giải quyết vấn đề vô cùng phức tạp về những hiện tượng xã hội bằng phương pháp đánh đồng chúng với một cái chưa biết[7]. Tôi tin tưởng ý định như vậy là mưu đồ sử dụng các phương tiện tuyệt đối vô ích. Đa nguyên luận xã hội học nhất quán - đó là lập trường của tôi. Nó được thực hiện có hệ thống trong hàng loạt chương của tập này và sẽ được triển khai rộng rãi nhất trong Cơ học xã hội [8].
Đó là các nguyên lý chỉ đạo cơ bản đóng vai trò cơ sở của toàn bộ Hệ thống xã hội học. Theo chủ ý của tác giả, Hệ thống này cần phải đem lại quan niệm toàn vẹn và hoàn tất nhất về xã hội học như khoa học. Nó cần phải chỉ ra xã hội học không phải là cái kho chứa những vấn đề khác nhau nhất không tìm thấy chỗ đứng của mình trong các khoa học khác do sự “vô bổ” của mình, mà là khoa học toàn vẹn, hoàn tất, có diện mạo hoàn toàn xác định và cấu trúc hoàn toàn cụ thể do bản chất của nó quy định.
Toàn bộ Hệ thống xã hội học là một tác phẩm quảng bác, ít nhất cũng cấu thành từ 8 tập. Tập này và tập thứ hai chỉ bao hàm phần thứ nhất của xã hội học - “Phép phân tích xã hội” - nghiên cứu cấu trúc của các nhóm xã hội và dân cư[8]. Từ thời Comte, các nhà xã hội học đã có thói quen phân chia xã hội học ra thành tĩnh lực học xã hội và động lực học xã hội [9]. Song, phần lớn họ, bắt đầu từ bản thân Comte, dường như hoàn toàn làm việc trong lĩnh vực động lực học xã hội. Gần như toàn bộ xã hội học đi vào lĩnh vực nghiên cứu tiến hóa của xã hội và khám phá các “quy luật tiến hóa”. Tĩnh lực học xã hội bị coi là một phân nhánh của xã hội học, song ngoại trừ những trường hợp riêng biệt, hoàn toàn không có nội dung mang tính hệ thống. Nó vẫn là “hoang địa” hay, nhiều nhất là, có hai, ba vấn đề được vội vã đưa vào và... thế là thỏa mãn.
Hai tập Hệ thống xã hội học - Phép phân tích xã hội I, II bây giờ được công bố là thử nghiệm lấp đầy khoảng trống đó.
Tập thứ nhất phân tích hiện tượng xã hội đơn giản, tập thứ hai phân tích tập hợp xã hội phức tạp là dân cư trên khắp Trái đất, cũng như ở các bộ phận riêng biệt của nó. Tập thứ nhất là sự chuẩn bị cho tập thứ hai, cả hai tập gộp lại là phần mở đầu cho tập tiếp theo - bộ phận nòng cốt của xã hội học - Động lực học xã hội. Ở đây [trong Lời tựa], tôi giải thích nhiệm vụ của tập thứ nhất: đề cập đến việc phân tích cấu trúc của mô hình về hiện tượng xã hội đơn giản. Tất cả những vấn đề khác chủ ý được loại ra khỏi nội dung.
Trong phần “Dẫn nhập”, tác giả đưa ra khái niệm chung về xã hội học và các bộ phận cấu thành nên nó.
Trong chương 3, tác giả xác định khái niệm trung tâm “tương tác” và đề cập đến một số vấn đề gắn liền với các phương pháp nghiên cứu nó.
Chương 4 dành cho việc phân tích các yếu tố của tương tác.
Chương 5 phân loại các hình thức tương tác.
Chương 6 “khép lại” vòng tương tác đã được tháo tung ra và đưa ra khái niệm về tương tác như là một đơn vị tập thể (thể thống nhất tập thể).
Chương 7 nghiên cứu các “chiếc kẹp” ràng buộc con người với nhau, từ đó một mặt hình thành chỉnh thể tập thể, và mặt khác - các điều kiện phá vỡ chỉnh thể ấy và phá tan các tổng thể hiện thực.
Bắt đầu phân tích từ các yếu tố của tương tác, từ các quan hệ liên cá thể, từ cái đơn giản đến cái phức tạp, tác giả đi một cách có logic đến khái niệm về nhóm xã hội và đến các quan hệ liên nhóm. Bản thân con đường lựa chọn đưa tác giả đến “tầng thứ hai” của phép phân tích - việc nghiên cứu các tương tác liên nhóm là đối tượng nghiên cứu của tập hai Phép phân tích. Như vậy, tập hai gắn liền một cách có logic với tập một và là sự tiếp nối của nó. Nếu thoạt nhìn có cảm tưởng kỳ quặc là tại sao tác giả lại lấy hiện tượng “tương tác” làm trung tâm trong nghiên cứu và tại sao tác giả lại dừng rất lâu ở việc nghiên cứu nó, tại sao tác giả lại không định nghĩa xã hội học là khoa học về xã hội, thì sự kỳ quặc này sẽ biến mất sau khi đọc xong hai tập.
Cuốn sách đề tặng M. M. Kovalevsky và E. V. De-Roberti. Đề tặng là dấu chỉ đặc biệt về tấm lòng biết ơn của tác giả đối với những người thầy không thể nào quên của mình. Tên tuổi người bạn khác của tôi là P. N. Zepalov cũng được gắn liền với các tên tuổi ấy. Nhà khoa học trẻ tuổi, con người có tâm hồn trong sạch, chuyên gia về thuyết phục, có bản tính duy lý tưởng, con người có lối ứng xử vị tha vô tư, P. N. Zepalov, đã hy sinh trong cuộc chiến năm 1918. Bi kịch của loài người vẫn tiếp diễn: những người con tốt nhất của Trái đất tiếp tục ngã xuống vì vinh quang của những ngẫu tượng được thánh hóa và những linh vật được tô hồng trát phấn. Nhưng… chúng ta sẽ không nói về điều này. Phải chăng nên nói: “Không nên khóc, không nên cười, mà nên thấu hiểu” [10] Chúng ta tuân theo công thức thuận lợi của Spinoza và lãng quên những “dấu tích đau đớn ở trong tim” [11]. Nếu không nên khóc, không thể cười, thì chúng ta hãy cố gắng thấu hiểu.
Thay lời kết, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến vợ tôi, E. P. Baratynskaya, anh tôi và những người bạn đã vô tư giúp đỡ trong những ngày tháng nặng nề nhất đối với tôi. Sự trợ giúp của họ đã giúp tôi hoàn thiện và công bố tác phẩm Hệ thống xã hội học. Tôi bày tỏ lòng biết ơn đến nhà xuất bản Kolos đã tạo điều kiện in cuốn sách này vào thời gian nặng nề nhất [12].
Tác giả
[1] Xem Số nhân lễ kỷ niệm: The American Journal of Sociology, May 1916: bài viết của Small: Fifty years of sociology in the United States (1865 - 1915).
[2] Xem: American Journal of Sociology, May 1911, bài viết “Report on questionnaire of the commitee of teaching”; [Ibid.] March, 1912; bài viết “Report of the commitee of teaching”. Một phần tư liệu này đã được Viện Xã hội học công bố trong cuốn sách Các chương trình về xã hội học, Petrograd, 1919.
[3] G. Simmel, Soziologie, 1908, S. 2.
[4] A. I. Herzen, Từ bờ bên kia (Tác phẩm do Remke chủ biên. T. V, tr.455) [4].
[5] Xem: P. A. Sorokin, Tội ác và trừng phạt, SPb., 1914 (Nhập môn: đạo đức học có phải là khoa học chuẩn tắc không); P. A. Sorokin, Phạm trù “bổn phận” và khả năng áp dụng của nó vào nghiên cứu những hiện tượng xã hội // Người đưa tin luật học, 1917, tháng 1; P. A. Sorokin, Cấu trúc của hệ chuẩn tắc hiện đại về luật hình sự // Người đưa tin tâm lý học, nhân học tội phạm và giáo dục học, 1917, số 1-2 và 3-5. Sự phê phán dữ dội các yếu tố đánh giá theo chuẩn tắc hiển nhiên và bí ẩn trong các khoa học và lý thuyết xã hội được đưa ra trong tác phẩm cơ bản của V. Pareto, Trattato di sociologia generale (Luận thuyết về xã hội học tổng quát) (1916, t. I, II).
Xem thêm: A. Poincaré, Khoa học và đạo đức // Những vấn đề của lý luận và tâm lý học sáng tạo, t. VII [5].
[6] Xem: A. Bentley, The Process of Government (1908), trong đó đưa ra sự phê phán xác đáng xã hội học tâm lý.
[7] Xem cụ thể hơn: P. A. Sorokin, Lý thuyết về nhân tố của M. M. Kovalevsky // Tuyển tập tưởng niệm M. M. Kovalevsky.
[8] Tôi trình bày dễ hiểu và ngắn gọn toàn bộ “Phép phân tích” và phần thứ nhất của Cơ học xã hội trong Giáo trình xã hội học phổ thông (Nhà xuất bản Liên minh hợp tác xã nông nghiệp và tín dụng Yaroslavsky.
Pitirim Sorokin (1889-1968)
là một trong những nhà xã hội học có ảnh hưởng sâu rộng nhất thế kỷ XX, người sáng lập và giáo sư đầu tiên của Khoa Xã hội học - Đại học Harvard (1930). Ông là trí thức hàng đầu của nước Nga, từng là giáo sư Đại học Petrograd, song sự nghiệp của Sorokin đạt tới đỉnh cao vinh quang chính vào những năm 1930-1950. Sau khi sang Mỹ, Sorokin nhanh chóng khẳng định vị thế trong khoa học xã hội bằng hệ thống lý thuyết đồ sộ, kết hợp phân tích văn hóa, lịch sử, đạo đức và động lực thay đổi xã hội.
Tâm lý học lâm sàng
93 lượt mua
Bốn học thuyết truyền thông
86 lượt mua
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
79 lượt mua
Suy tưởng
4317 lượt xem
Tâm lí học đám đông
3604 lượt xem
Nguồn gốc các loài
3366 lượt xem
Căn phòng riêng
3148 lượt xem
Những thế giới trong tâm trí
3056 lượt xem
Bình luận