Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và giải pháp
Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và giải pháp
4.5
266
Lượt xem
0
Đã bán
Chọn sản phẩm
Sách giấy
Sắp ra mắt
Thông tin xuất bản
NXB
Người dịch:
Năm XB:
Loại sách:
Sách giấy;
Khổ sách:
14.5 x 20.5
Số trang:
432
Quốc gia:
Ngôn ngữ:
vi
Mã ISBN:
Mã ISBN Điện tử:

Chưa bao giờ những vấn đề cốt lõi và nổi cộm của nền giáo dục nước nhà lại được đặt ra một cách bức xúc và rốt ráo như thời gian vừa qua. Các cuộc thảo luận lớn, nhỏ triền miên, các kiến nghị ngắn, dài được đề xuất liên tiếp... với bao nhiêu công sức, thời gian và tâm huyết. Nhưng hình như tình trạng “người nói cứ nói, người làm cứ làm”, đang làm cho tình hình ngày càng rối thêm và đâu đó đã nghe tiếng thở dài nản lòng...

Nhưng nản lòng sao được khi Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng phát triển bền vững, là vận mệnh và tương lai của Đất nước ta. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHKHKTVN) càng không thể đứng ngoài cuộc và sẽ tổ chức một đợt thảo luận rộng rãi, sâu sắc và toàn diện những vấn đề nóng bỏng hiện nay của giáo dục. Để phục vụ cho các cuộc thảo luận này, theo sự chỉ đạo của thường trực Đoàn Chủ tịch LHHKHKTVN, Nhà xuất bản Tri thức xin trân trọng giới thiệu với độc giả cuốn sách: “Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và Giải pháp”.

Cuốn sách gồm các bài quan trọng về các vấn đề mấu chốt và cấp bách của giáo dục do các tác giả trong và ngoài nước viết đã hoặc chưa được công bố trên các phương tiện truyền thông. Phần thứ nhất của cuốn sách bao gồm một số bài viết mang tính dẫn luận. Trong phần này chúng tôi trích dẫn phát biểu của Einstein về giáo dục và ý kiến hết sức quan trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo nước nhà. Tiếp đó chúng tôi xin giới thiệu với độc giả các ý kiến trả lời phỏng vấn về các vấn đề giáo dục của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã đăng trên các báo trong thời gian gần đây để dẫn luận cho phần II của cuốn sách, phần thảo luận về quan điểm và đề xuất giải pháp.

Phần II, chúng tôi xin mở đầu bằng hai bản Đề án Kiến nghị của hai tập thể các nhà khoa học trong nước (Hoàng Tụy và cộng sự) và ở nước ngoài (Vũ Quang Việt và cộng sự).

Đây là hai bản Đề án - Kiến nghị được soạn thảo một cách rất công phu, mang tính khoa học và tính thực tiễn cao; đã được gửi đến các cơ quan cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước từ vài năm trước, nhưng tiếc rằng cho đến nay vẫn chưa có phản hồi. Chúng tôi xin đăng lại hai tài liệu này để tỏ lòng trân trọng ý thức trách nhiệm và nhiệt huyết của các tác giả, đồng thời cũng để khẳng định tính thời sự của các kiến nghị này.

Tiếp đó chúng tôi xin giới thiệu bài viết của các tác giả là người Việt ở trong và ngoài nước, và người nước ngoài, được sắp xếp theo thứ tự A, B, C... theo tên tác giả.

Những ý kiến được trình bày trong cuốn sách này là của riêng các tác giả. Nhà xuất bản xin đề nghị quý vị độc giả coi đây là tài liệu tham khảo để nghiên cứu với tinh thần cầu thị.

TRÍCH SÁCH

Bài viết từ trang 79 – 85, Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và giải pháp, Nhà xuất bản Tri thức 12/2007

 

CẢI CÁCH GIÁO DỤC

   Nguyễn Quang A

Cải cách giáo dục (CCGD) là một vấn đề trọng đại vì nó ảnh hưởng đến nhiều chục triệu người, đến sự phát triển lâu dài của đất nước. Chính vì vậy thảo luận về cải cách giáo dục là quan trọng, cần thiết và không được tiến hành một cách vội vã. Chỉ qua tranh luận, trao đổi mới có thể hiểu, mới có thể tìm ra các giải pháp phù hợp (không có giải pháp tối ưu, tốt nhất) để từng bước một cải thiện hệ thống giáo dục. Thảo luận về cải cách giáo dục đã diễn ra khá sôi nổi và hầu như khó đi đến sự đồng thuận, trừ sự đồng thuận rất cao rằng hệ thống giáo dục kém thì người dân mãi còn nghèo và đất nước không thể phát triển, rằng nền giáo dục của chúng ta mắc nhiều chứng bệnh. Đừng coi thường sự đồng thuận cao “sơ đẳng” này. Thấu hiểu tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, biết các chứng bệnh hiện tại (càng biết kĩ càng tốt) là đã đi được nửa quãng đường.

Về nửa kia thì sao? Vấn đề còn đang tranh cãi là các liệu pháp chữa trị ra sao? Hệ thống giáo dục nên được cải cách theo hướng nào? Vai trò của nhà nước, của xã hội dân sự và của khu vực tư nhân? Nên tiến hành giải quyết các vấn đề nhức nhối ra sao? Thứ tự ưu tiên của các vấn đề cần giải quyết là gì và những kế hoạch chi tiết. Có nhiều đề xuất. Có những đề xuất khá toàn diện của các nhà giáo, học giả nổi tiếng trong và ngoài nước. Có những đề xuất của các nhà giáo, nhà khoa học đầy tâm huyết và trách nhiệm, song cũng có những đề nghị của các cá nhân có phần thiên kiến. Như thế là bình thường. Thảo luận sôi nổi về chúng là việc nên tiếp tục làm. Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhất là từ khi có Bộ trưởng mới, cũng bắt đầu lắng nghe và tiếp thu một số điểm phù hợp của các đề xuất và kinh nghiệm nước ngoài (như hứa tăng lương, chống tiêu cực trong học và thi, tăng khả năng/quyền tự chủ của các đại học, v.v…) Đó là tín hiệu đáng mừng. Qua tranh luận, thảo luận trên tinh thần khoa học và xây dựng chắc có thể tìm ra những giải pháp cải thiện tình hình.

Dựa vào những nghiên cứu mới đây về cải cách khu vực y tế và phúc lợi của Kornai János, vào những phân tích định lượng về thể chế giáo dục và sự cộng tác công-tư của nhiều học giả thí dụ như của Luger Woesmann. Tổng quan này muốn giới thiệu những khung khổ (các nguyên tắc cơ bản, các thể chế, sự hợp tác công - tư trong cấp tài chính cho giáo dục và cung ứng dịch vụ giáo dục). Vấn đề “có thị trường giáo dục đào tạo hay không” đã được bàn cãi khá lâu ở Việt Nam. Nay hầu như ai cũng thống nhất là có thị trường giáo dục, là cơ chế thị trường có vai trò trong giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, chúng ta hay nhảy từ thái cực này sang thái cực khác. Từ chỗ không muốn nghe về cơ chế thị trường trong giáo dục, không chấp nhận cơ chế thị trường trong giáo dục, nay có vẻ có nguy cơ quá thiên về nó. Tuyên bố của một số nhà lãnh đạo về cổ phần hóa một vài đại học nhà nước hay việc chạy đua lập trường đại học tư có thể là những biểu hiện như vậy. Cơ chế thị trường có vai trò (chính xác hơn là sự cạnh tranh có vai trò quan trọng) trong giáo dục, song thị trường giáo dục (cũng như y tế) có nhiều khuyết tật nên cần có sự can thiệp của nhà nước và thị trường tự do không thể điều phối khu vực này một cách hữu hiệu. Cần có sự cộng tác công-tư hiệu quả. Đầu tiên có lẽ cần làm rõ một vài thuật ngữ. Trong khu vực phúc lợi cần phân biệt vài khái niệm: nhà cung cấp (dịch vụ) là các tổ chức (nhà nước hay tư nhân) cung ứng các dịch vụ đó (như bệnh viện, phòng khám, trường học); người cấp tài chính là người hay tổ chức chi trả tiền cho nhà cung cấp (ngân sách nhà nước, hãng bảo hiểm, người sử dụng); người sử dụng là người trực tiếp tiêu thụ dịch vụ (bệnh nhân, học sinh), họ có thể chi trả một phần, nhưng trong giáo dục họ thường không phải là người cấp tài chính (mà là bố mẹ họ hay ngân sách nhà nước); sự cộng tác công-tư được hiểu là sự cộng tác của các nhà cung cấp nhà nước và nhà cung cấp tư nhân (bên cung) cũng như sự chia sẻ gánh nặng tài chính giữa nhà nước và tư nhân (bên cấp tài chính).

 

I. Những nguyên lý chung của cải cách giáo dục (cải cách phúc lợi)

Khi nghiên cứu về cải cách khu vực y tế ở Đông Âu, Kornai đã kiến nghị chín nguyên lý chung cho cải cách khu vực phúc lợi (y tế, giáo dục, hưu bổng, chăm sóc trẻ em và người già, trợ giúp những người cơ nhỡ). Những nguyên lý đó (bạn đọc có thể tìm hiểu kĩ hơn trong J. Kornai, K. Eggleston “Chăm sóc sức khỏe cộng đồng”, NXB Văn hóa Thông tin, 2002) là:

1. Nguyên lý chủ quyền cá nhân: Cải cách phải tăng cường phạm vi quyết định của cá nhân và thu hẹp quyền hạn quyết định của nhà nước trong lĩnh vực các dịch vụ phúc lợi. Nguyên lý này đề cao vai trò của quyết định cá nhân và đòi hỏi cá nhân phải có trách nhiệm với riêng mình, phải từ bỏ thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước. Nó không yêu cầu xóa bỏ quyền hạn của nhà nước, mà chỉ là thu hẹp quyền hạn tràn lan của nhà nước. Thay vì nhà nước cố buộc người ta hạnh phúc, phải để cho người dân tự đạt lấy hạnh phúc.

2. Nguyên lý đoàn kết: Hãy giúp đỡ những người bị đau khổ, gặp hoạn nạn, ở trong tình trạng bất lợi. Theo nguyên lý này, những người gặp hoạn nạn, ở trong tình trạng bất lợi, khó khăn phải được giúp đỡ. Sự trợ giúp không thể chỉ phó mặc cho lòng từ thiện cá nhân, nó đòi hỏi nhà nước có những cưỡng chế bằng luật (bảo hiểm y tế cơ bản, bảo hiểm xã hội bắt buộc, đóng thuế để đảm bảo giáo dục cưỡng chế miễn phí, v.v…) để đảm bảo sự giúp đỡ đối với những người không có khả năng tự lo cho mình. Không có nghĩa là nhà nước phải lo cho tất cả mọi người (nếu có khả năng thì càng tốt nhưng không bắt buộc) về các dịch vụ này.

Hai nguyên lý trên là các nguyên lý đạo đức cơ bản, năm nguyên lý sau là sự mong mỏi của các định chế và cơ chế điều phối.

3. Nguyên lý cạnh tranh: Đừng có độc quyền của sở hữu nhà nước và kiểm soát nhà nước. Hãy để cạnh tranh hoạt động giữa các hình thức sở hữu và các cơ chế điều phối. Từ nguyên lý 1 có thể suy ra nguyên lý 3. Cần có cạnh tranh để cá nhân có quyền lựa chọn (giữa các nhà cung cấp dịch vụ thuộc các thành phần khác nhau, giữa bệnh viện công và bệnh viện tư, giữa trường công và trường tư). Cạnh tranh cũng thúc đẩy hiệu quả (nguyên lý 4). Nguyên lí này muốn mở đường cho khu vực tư nhân tham gia vào khu vực phúc lợi (mở bệnh viện tư, trường tư, nhà dưỡng lão tư, v.v…) Các tổ chức này có thể hoạt động vì lợi nhuận hay phi vụ lợi hay trên cơ sở từ thiện hoàn toàn, chúng cạnh tranh với các tổ chức thuộc sở hữu nhà nước (nguyên lý này không bàn đến tỷ lệ công/tư nhưng muốn cho cạnh tranh có hiệu quả thì tỷ lệ của các tổ chức tư phải vượt quá một ngưỡng nào đấy). Nguyên lý này mở ra khả năng để người dân có thể dựa vào “nhiều trụ cột” trong khu vực phúc lợi.

4. Nguyên lý khuyến khích hiệu quả: Hãy hình thành những hình thức sở hữu và điều chỉnh thúc đẩy, khuyến khích tính hiệu quả. Nguyên lý này áp dụng cả ở bên cầu (ở bên những người sử dụng dịch vụ: phụ huynh học sinh, bệnh nhân) lẫn ở bên cung (các trường, các bệnh viện) cũng như ở bên cung cấp tài chính (nhà nước, hãng bảo hiểm, bệnh nhân, phụ huynh). Lưu ý rằng người sử dụng có thể không phải là người cấp tài chính (chi trả) cho nhà cung cấp dịch vụ (thí dụ trường được nhà nước cấp kinh phí, người học không phải đóng hay chỉ đóng một phần học phí, tỷ lệ học phí là bao nhiêu để khuyến khích hiệu quả?). Cạnh tranh cũng khuyến khích hiệu quả nhưng sự cộng tác công tư (về chi phí, về cung ứng dịch vụ) cũng có thể làm tăng hiệu quả. Các nguyên lý cạnh tranh và hiệu quả tăng cường lẫn nhau.

5. Nguyên lý về vai trò mới của nhà nước: Chức năng chính của Nhà nước trong khu vực phúc lợi hãy là: thiết lập khung khổ pháp luật, giám sát các định chế phi nhà nước (và nhà nước); đóng vai trò “nhà bảo hiểm” và người trợ giúp cuối cùng. Nhà nước đảm bảo rằng mọi công dân nhận được sự giáo dục và chăm sóc y tế cơ bản. Tất cả hoạt động trong khu vực phúc lợi (y tế, giáo dục, v.v…) phải được tiến hành theo các quy tắc chơi do nhà nước đặt ra, dưới sự giám sát của Nhà nước và xã hội dân sự.

6. Nguyên lý về tính minh bạch: Hãy để quan hệ giữa cung ứng dịch vụ phúc lợi của Nhà nước và gánh nặng thuế tương ứng được rõ ràng và minh bạch với công dân. Thảo luận, tranh luận công khai với đầy đủ thông tin phải đi trước các quyết định về các biện pháp thực tiễn của cải cách. Các chính khách phải nói thật rõ ràng chính sách phúc lợi nào họ muốn thực hiện, và để thực hiện nó họ lấy từ nguồn tài chính nào. Có chính sách rõ ràng buộc các nhà cung cấp dịch vụ, các tổ chức cung cấp tài chính phải có trách nhiệm giải trình với những người liên quan một cách minh bạch. Công dân không nhìn thấy, không hiểu, không ý thức rõ về gánh nặng tài chính của các dịch vụ phúc lợi là gánh nặng của chính họ (từ tiền thuế của họ hay từ tiền vay mà con cháu họ phải trả). Vì cuối cùng gánh nặng tài chính, dẫu thông qua ngân sách nhà nước hay do họ tự trả, vẫn là của chính họ, cho nên việc thảo luận, tính minh bạch là đòi hỏi là cần thiết. Trong nhiều nước tình hình không minh bạch vấn đề này là rất trầm trọng, công dân đã quen với cách tuyên truyền “nhà nước lo cho dân từ cái kim sợi chỉ, từ miếng cơm manh áo, từ lúc lọt lòng cho đến nơi mai táng”, phải để họ “cai” thói quen này. Qua 20 năm đổi mới ở nước ta, vấn đề này đã không còn gay gắt như trước đối với thế hệ trẻ chiếm trên nửa số dân, nhưng ở những người lớn tuổi hơn (và họ thường nắm quyền hành) thì tàn dư của nếp suy nghĩ ấy vẫn còn. Chỉ có làm rõ quan hệ này thì mới thực sự là “vì dân, do dân”. Mọi sự lấp liếm, che giấu thông tin về lĩnh vực này đều cần lên án, phải chấm dứt. Làm cho dân hiểu hơn thì dân sẽ dễ dàng ủng hộ cải cách, tham gia tích cực vào quá trình cải cách. Đối với các nhà cung cấp tư nhân (và nhà nước) phải buộc họ có trách nhiệm giải trình, cung cấp thông tin cho những người liên quan (nhà nước, học sinh, phụ huynh v.v…) về hoạt động của họ về thành tích của họ, về chi tiêu của họ v.v… cho mọi người dân đều có thể thực hiện nguyên lý tự chủ của mình, và sự cạnh tranh được lành mạnh.

7. Nguyên lý cần thời gian: Phải có thời gian để cho các định chế mới của khu vực phúc lợi tiến hóa và để cho công dân thích nghi. Cần có thời gian để thử nghiệm, để cho các tổ chức mới hình thành, để cho người dân thích nghi. Tốc độ cải cách không phải là tiêu chuẩn hàng đầu. Không thể nóng vội, hấp tấp.

Hai nguyên lý cuối cùng liên quan đến những tỷ lệ đáng mong mỏi.

8. Nguyên lý tăng trưởng hài hòa: Hãy có những tỷ lệ hài hòa giữa các nguồn lực dùng cho các khoản đầu tư phục vụ trực tiếp cho tăng trưởng nhanh và các khoản chi cho hoạt động và phát triển của khu vực phúc lợi. Công cụ hữu hiệu nhất để giải quyết những khó khăn về phúc lợi là tăng trưởng kinh tế bền vững. Tỷ lệ giữa các khoản chi đầu tư cho tăng trưởng kinh tế và các khoản chi cho phúc lợi phải cân đối, tăng trưởng càng nhanh và bền vững thì chúng ta càng có nhiều nguồn lực cho phúc lợi (có thể coi như khoản đầu tư dài hạn để tạo vốn con người và vốn xã hội, sử dụng vốn vay khôn khéo cho lĩnh vực giáo dục và y tế có thể là một biện pháp tốt nhưng không thể đẩy gánh nặng trả nợ cho các thế hệ sau.)

9. Nguyên lý tài trợ có thể duy trì được: Ngân sách Nhà nước phải có năng lực tài trợ liên tục cho việc thực hiện những nghĩa vụ cam kết của Nhà nước. Đây là một đòi hỏi nghe có vẻ rất hiển nhiên, thế mà việc vi phạm nguyên tắc này thường xuyên xảy ra. Nhà nước phải thận trọng với những cam kết phúc lợi của mình, những cam kết quá đáng được luật hóa sẽ có thể không bao giờ thực hiện được do nó có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách không sao chịu đựng nổi. Trong các cuộc tranh luận phải làm thật rõ vấn đề này cho tất cả các bên liên quan, cho những người ủng hộ “nhà nước phúc lợi” mà không thèm để ý đến khía cạnh tài chính, cũng như cho những người có nói về vấn đề phúc lợi nhưng lại chỉ quan tâm đến vấn đề “tài chính” thuần túy.

Đấy là chín nguyên lý tạo một khung khổ, một chương trình nghị sự giúp cho việc thảo luận các vấn đề cải cách phúc lợi (giáo dục) một cách logic và hiệu quả.

[...]

 

Bình luận

0/1500

Sách xem nhiều nhất

Suy tưởng

3422 lượt xem

Nguồn gốc các loài

2861 lượt xem

Căn phòng riêng

2631 lượt xem

Tuyển tập hay nhất

Tuyển tập hay nhất

Xem toàn bộ