1015 lượt mua
Hotline:
02466878415NXB | Người dịch: | Hà Dương Tuấn | |
Năm XB: | Loại sách: | Sách giấy; | |
Khổ sách: | 12 x 20 | Số trang: | 468 |
Quốc gia: | Ngôn ngữ: | vi | |
Mã ISBN: | Mã ISBN Điện tử: |
1. Tác giả
Triết gia Pháp Gaston Bachelard sinh năm 1884 tại Bar-sur-Aube, một tỉnh nhỏ cách Paris hơn 200 km về phía đông. Xong trung học tại đây, ông trở thành nhân viên bưu điện (1903 - 1913) trong khi vẫn tự học để thi đỗ cử nhân toán năm 1912. Vừa thành hôn năm 1914 với cô Jeanne Rossi, giáo viên tiểu học cùng quê, thì Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất nổ ra, ông vào quân ngũ. Chiến tranh kết thúc, ông trở về sum họp với bà Jeanne chưa được bao lâu thì bà mất năm 1920, để lại một người con gái, Suzanne Bachelard (1919 - 2007), sau này là giáo sư về khoa học luận tại trường Cao đẳng Sư phạm Sèvres và Đại học Sorbonne. Ông dạy hai môn Vật lý và Hoá học tại trường trung học Bar-sur-Aube (1919 - 1930) trong khi vẫn tiếp tục tự học để lấy các bằng cử nhân triết học năm 1920, thạc sĩ triết học năm 1922, và tiến sĩ văn chương năm 1927. Từ 1930 đến 1940 ông dạy triết học tại Đại học Dijon, rồi thành giáo sư về lịch sử khoa học và khoa học luận tại Sorbonne từ 1940 đến 1955, năm ông được bầu vào Hàn lâm Viện Pháp. Ông qua đời năm 1962 tại Paris và được an táng tại Bar-sur-Aube.
Các tác phẩm chính
Các tác phẩm của Bachelard được chia thành hai dòng trước tác song song, cả hai đều có tiếng vang lớn và được dịch ra nhiều ngôn ngữ: một mặt là những nghiên cứu văn học, đặc biệt về những mơ mộng và tưởng tượng của con người thể hiện qua thi ca, trước những hiện tượng trực quan cơ bản của thế giới, những tứ đại nguyên tố của thời cổ đại, đất, nước, lửa, khí... như:
Nước và những mơ mộng (L'eau et les rêves - 1942)
Không khí và những giấc mơ (L'air et les songes - 1943),
Đất và những mơ màng nghỉ ngơi (La Terre et les rêveries du repos - 1946)
Ngọn lửa nến (La flamme d'une chandelle - 1961)
...
Mảng thứ hai trong các tác phẩm của Bachelard là về khoa học luận, có thể liệt kê những tác phẩm chủ yếu như:
Giá trị quy nạp của thuyết tương đối (La valeur inductive de la relativité - 1929)
Tinh thần khoa học mới (Le nouvel esprit scientifique - 1934)
Phân tâm luận về lửa (La Psychanalyse du Feu - 1938)
Sự hình thành tinh thần khoa học (La formation de l'esprit scientifique - 1938)
Triết lý của chữ Phi (La philosophie du Non - 1940)
Chủ nghĩa duy lý ứng dụng (Le rationnalisme appliquée - 1949)
Hoạt động duy lý của vật lý đương đại (L'activité rationaliste de la physique contemporaine - 1951)
Chủ nghĩa duy vật duy lý (Le matérialisme rationel - 1953)
...
Nhưng để có thể nói rõ hơn về khoa học luận của Bachelard có lẽ cần giới thiệu trước một toàn cảnh ngắn về khoa học luận từ đầu thế kỷ 20.
Khoa học luận
Khoa học luận gồm những tư duy về hoạt động khoa học, nó dần dần hình thành trong suốt thế kỷ 18, sau khi Vật lý học của Newton đã được chấp nhận rộng rãi, đồng thời Toán học, Hoá học đã khá phát triển. Đối tượng của khoa học luận hiện nay chủ yếu vẫn chỉ là khoa học thực nghiệm: vật lý học, hoá học, và gần ta hơn, cộng thêm sinh học. Toán học và luận lý học thì đã được coi như những công cụ tư duy, không có tính thực nghiệm. Các ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung không được đề cập đến, có lẽ vì độ phức tạp của chúng quá lớn.
Có thể nói, khoa học luận của thế kỷ 19 được kết tinh thành thuyết thực chứng (positivisme) của Auguste Comte (1798 - 1857). Với ông, tinh thần khoa học đồng nghĩa với tinh thần thực chứng. Thực chứng có nghĩa tin tưởng ở sự đồng nhất giữa lý trí và hiện thực, nhưng hiện thực của Comte không phải là những dữ kiện đầu tiên đến từ giác quan, mà là một hiện thực được khám phá / tạo dựng bằng lý trí. Luận đề nổi tiếng về ba trạng thái của ông là: Bất cứ một tư tưởng hay một hiểu biết nào cũng trải qua ba trạng thái: trạng thái thần học, hay giả tưởng; trạng thái siêu hình, hay trừu tượng; và trạng thái khoa học, hay thực chứng. Ngoài ra, Comte còn tin tưởng khoa học có thể sẽ "hiểu" được toàn bộ thế giới và làm nền tảng cho cả đạo đức (chủ nghĩa duy khoa học). Trừ vế thứ hai này, tư tưởng thực chứng vẫn ít hay nhiều nằm trong các nhà khoa học cũng như khoa học luận hiện đại, dù với những sắc thái tinh tế khác nhau.
Sau khi hai lý thuyết cách mạng mở ra ở đầu thế kỷ 20: thuyết tương đối và vật lý lượng tử, cùng với những tiến bộ vượt bậc từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 của toán học và luận lý hình thức, khoa học luận có một bước khởi đầu mới.
Trường phái Vienne (1924 - trước Thế chiến thứ hai) chịu tác động mạnh từ luận lý học hình thức, khoa học luận của họ phát triển chủ nghĩa thực chứng bằng cách đào sâu vào tính logic của ngôn ngữ khoa học, được gọi là trường phái thực chứng luận lý (positivisme logique), hay duy nghiệm luận lý (empirisme logique), hay tân thực chứng (neo-positivisme).
Popper (1902 - 1994) có ấn tượng mạnh về quá trình Einstein sáng tạo thuyết tương đối và những cố gắng của các nhà vật lý học đương thời để tìm cách kiểm nghiệm nó. Do đó, ông không đi tìm những tính chất cơ bản của khoa học trong ngôn ngữ của nó như những người thực chứng luận lý, mà trong sự so sánh giữa lý thuyết với thực nghiệm. Ông vạch ra lằn ranh giới nổi tiếng giữa khoa học và phi khoa học: một lý thuyết chỉ được gọi là khoa học khi nó có khả năng tiên đoán và xác định những hiện tượng mới, do đó có thể bị thực tế thí nghiệm hay quan sát cho thấy tiên đoán đó sai. Đó là khái niệm có thể bị phản nghiệm (falsifiability, réfutabilité). Khi lý thuyết bị phản nghiệm thì có nhu cầu cho một lý thuyết mới, và đó là động lực của tiến bộ khoa học.
Paul Feyerabend (1924 - 1994), một học trò của Popper, tuyên bố thẳng thừng trong tác phẩm Chống phương pháp (Against methods) sự phá sản của mọi cố gắng đi tìm "phương pháp luận" cho sự khám phá khoa học. Qua lịch sử khoa học, ông chứng minh thường những khám phá hay sáng tạo lớn đều vượt ra ngoài phương pháp luận khoa học đương thời, từ đó viết: làm gì cũng tốt! (anything goes!)
Kuhn (1922 - 1996) là nhà khoa học luận thời thượng nhất hiện nay, và tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là "Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học (The structure of scientific revolutions)[1], trong đó khái niệm then chốt là khái niệm paradigma, và chuyển dịch paradigma, (paradigm shift). Paradigma[2] là một hệ thống các ý tưởng (không hẳn là được phát biểu rõ như các khái niệm) trong một nền khoa học nhất định, được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu. Đến một lúc nào đó paradigma cũ không ổn nữa cho việc nghiên cứu thì xuất hiện một chuyển dịch paradigma đến một paradigma mới, một sự đồng thuận mới của các nhà khoa học. Tuy rằng một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự đồng thuận dĩ nhiên là tính hiệu quả của lý thuyết mới, theo Kuhn thì sự chuyển dịch paradigma có tính tổng thể, vì các khái niệm định nghĩa lẫn nhau cho nên mặc dù ngôn từ có thể được giữ, nhưng ý nghĩa đã khác, do đó giữa hai hệ thống lý thuyết là "bất khả liên thông" (incommensurable: in-com-mesure-able = không/ cùng/ đo/ có thể).
Trong khối ngôn ngữ Pháp, ngoài Bachelard ít ra phải kể đến Jean Piaget (1896 - 1980), ông tiếp cận khoa học luận từ góc độ tâm lý học, nhất là tâm lý trẻ em, và chứng minh tính duy lý của trí tuệ con người không phải bẩm sinh mà được xây dựng dần qua những kinh nghiệm so đọ với thực tế (có ý thức hay không có ý thức). Ngoài ra còn có nhà toán học và khoa học luận rất gần với Bachelard là Ferdinand Gonseth (1890 - 1975), cũng người Thuỵ Sĩ như Piaget. Những cách tiếp cận cũng như những phát kiến của khối khoa học luận ngôn ngữ Pháp có thể bổ sung nhiều cho những luận thuyết Áo-Anh-Mỹ kể trên.
Khoa học luận của Bachelard
Thực ra, với khủng hoảng nền tảng của toán học, được các nhà luận lý học giải quyết hiệu quả, cũng như từ vật lý học của cuối thế kỷ 19 và hai cuộc cách mạng của thuyết tương đối và thuyết lượng tử, thì việc nhận định của các nhà khoa học luận về tiến bộ khoa học, như là kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn giữa lý thuyết và hiện thực, đương nhiên giống nhau. Khác biệt giữa các tác giả nằm ở sự rút ra những kết luận gì cho nhận thức luận, và ở những cách tiếp cận khác nhau để làm việc đó như đoạn trên đã trình bày.
Tiến bộ khoa học theo Bachelard không phải là sự gom góp dần dần ngày càng nhiều hơn của hiểu biết về Hiện Thực (viết hoa), mà là kết quả của một cuộc đấu tranh không ngừng giữa lý trí và hình ảnh của Hiện Thực, viết gọn là hiện thực (không chữ hoa) vì trong lý trí chỉ có hình ảnh của Hiện Thực. Lý trí không ngừng đặt ra cho hiện thực những câu hỏi mới: "tư duy đi tới hiện thực, nó không đi ra từ hiện thực" (trích Giá trị quy nạp của thuyết tương đối), vậy cũng có thể nói là tư duy khoa học không ngừng đấu tranh với chính nó. Sự phát hiện vấn đề vì thế có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là khi câu trả lời của hiện thực mâu thuẫn với hiện thực. "Chính cái ý thức nhìn thấy vấn đề là dấu ấn chính xác của một tinh thần khoa học đích thực. Với một đầu óc khoa học thì hiểu biết nào cũng là câu trả lời cho một câu hỏi. Nếu đã không có câu hỏi thì cũng không thể có hiểu biết khoa học. Không có gì tự nhiên thành, không có gì cho sẵn, tất cả phải được xây dựng nên." (Sự hình thành tinh thần khoa học, lời phi lộ). Cái được xây dựng là một lý thuyết khoa học. Câu hỏi và câu trả lời của hiện thực, dĩ nhiên là hoạt động thực nghiệm. Như thế, hiện thực của Bachelard chính là hiện thực được khoa học xây dựng nên, ông không có một tư duy tiên thiên nào về Hiện Thực.
Trong khi cách tiếp cận của các tác giả Áo-Anh-Mỹ chịu ảnh hưởng của luận lý hình thức, đặt nặng tính đồng đại và cấu trúc, thì cách tiếp cận của Bachelard là biện chứng, đặt nặng tính lịch đại. Trước Kuhn khá lâu, Bachelard đã đề ra khái niệm gián đoạn nhận thức (rupture épistémologique) tương tự như sự chuyển dịch paradigma[3] nhưng có lẽ còn hoàn chỉnh hơn, vì ông quan niệm sự gián đoạn nhận thức như một vận động biện chứng của nhận thức, nhận thức mới vừa phủ định vừa bao gồm nhận thức cũ. Một thí dụ để so sánh sự phủ-định-bao-gồm của Bachelard và sự chuyển dịch paradigma của Kuhn: nếu đúng là cơ học của Newton không thể diễn tả cơ học của Einstein, thì ngược lại cơ học của Einstein hoàn toàn có thể diễn tả cơ học của Newton, đó là trường hợp những vận tốc nhỏ so với vận tốc ánh sáng, do đó trên thực tế có thể coi vận tốc ánh sáng là vô hạn. Sự bất khả liên thông chỉ có một chiều.
Cần nói thêm là không có phương pháp luận nào cho phép con người tự động tạo ra một bước nhảy vọt trong tư duy khoa học. Bước nhảy trong tư duy của Einstein vừa là kết quả của một quá trình tiếp thu và phê phán các lý thuyết đã có sẵn (gần như tất cả toán học của thuyết tương đối hẹp đã do Lorentz và Poincaré phát triển, trước khi Einstein diễn tả chúng trong một cái nhìn sáng tỏ mới về thế giới vật chất, sau đó được Minkovski hoàn chỉnh), vừa là kết quả của một sáng tạo thiên tài. Mà sáng tạo thì không có cách gì học được, nếu không có thể đã có hàng ngàn Einstein.
Nhưng có phải vì thế mà "làm gì cũng tốt!" như có thể hiểu vội vã tuyên bố của Feyerabend[4]? Cần hiểu Feyerabend một cách tế nhị hơn, vì, nói như ngôn ngữ nhà Phật, "vô minh thì vọng động", "làm gì cũng tốt" trong tình trạng vô minh thì chỉ là vọng động[5]. Sáng tạo cần tự do, mà điều kiện lớn nhất cho tự do là hiểu biết, nếu bị trói buộc trong những sai lầm thì chỉ có ảo tưởng về tự do mà thôi. Không biết Bachelard có nghĩ như thế không, mà quá trình tư duy khoa học đấu tranh chống lại những sai lầm của chính nó là một trong những chủ đề nghiên cứu của ông, đặc biệt trong cuốn Sự hình thành tinh thần khoa học này, khi ông nghiên cứu về giai đoạn cuối của thời kỳ tiền khoa học, và về những chướng ngại nhận thức (obstacles épistémologiques), đúng ở thời điểm mà chúng sắp được vượt qua.
2. Tác phẩm: Sự hình thành tinh thần khoa học
Tác phẩm này được xuất bản năm 1938, bốn năm sau "Tinh thần khoa học mới", trong đó Bachelard nhằm "nắm bắt tinh thần khoa học đương đại trong biện chứng của nó". Với quan điểm là triết học phải rút ra những kết luận từ khoa học tự nhiên chứ không phải ngược lại, những tư duy của ông khởi đi từ những thành tựu khoa học có tính cách mạng của đầu thế kỷ 20: hình học phi Euclide, toán học xác suất, thuyết tương đối và thuyết lượng tử... để đề nghị một phương pháp luận "phi Descartes"... Những điều này, có thể nói là về mặt sáng của tinh thần khoa học đương đại, hiện nay đã được phổ biến nhiều, nên người dịch nhận thấy có lẽ việc dịch Sự hình thành tinh thần khoa học, nói về vùng tối mà tư duy khoa học đã phải vượt qua, có lẽ mang lại nhiều điểm mới và có ích hơn để phục vụ bạn đọc Việt Nam ngày nay. Tác phẩm này chỉ nói về việc thành hình tư duy khoa học cổ điển, nói chính xác hơn là về những chướng ngại của tư duy tiền khoa học trong thế kỷ 18 về trước, mà nó đã vượt qua.
Sách có 12 chương thì ngoài hai chương mở đầu và kết luận, Bachelard dành 10 chương cho 10 chướng ngại nhận thức khác nhau. Để tìm ra những chướng ngại đó và tìm hiểu qua cơ chế nào đã tác động đến việc nghiên cứu khoa học, Bachelard đã dựa trên sự phân tích một thư tịch đồ sộ của các tác giả tiền khoa học, và ngay cả của những nhà khoa học tiên phong lớn như Buffon, Descartes, Franklin, Lavoisier, Volta... trong chừng mực mà tư duy khoa học của họ vẫn chưa thoát ra hẳn khỏi những chướng ngại. Chính vì thế, qua đó người đọc cũng khám phá những nét rất thú vị của tư tưởng tiền khoa học tại Âu Tây, những nét này không khỏi khêu gợi sự liên tưởng về các dấu vết hiện nay vẫn còn nằm sâu trong nền văn hoá này; cũng không kém thú vị khi người ta nghĩ đến những tương đồng với nhiều nét của tư duy Á Đông, có tính tiền khoa học khá rõ rệt. Phân tích của Bachelard sử dụng công cụ lý luận của phân tâm học, phân tâm luận của Bachelard mở rộng phân tâm luận của Freud theo nghĩa Freud chỉ nghiên cứu phân tích tâm lý trong quan hệ giữa người với người, Bachelard đem những phuơng pháp phân tâm luận áp dụng cho quan hệ giữa người và tự nhiên.
Ngoại trừ những trường hợp đơn lẻ, hai thí dụ được Bachelard tập trung mổ xẻ là ngành giả kim - hoá học, và sự phát triển của điện học.
*
Trong mười chướng ngại nhận thức, có thể gom lại bốn chướng ngại đầu tiên, từ Chương II đến Chương V là: 1) Chướng ngại của kinh nghiệm trực quan; 2) Chướng ngại của hiểu biết tổng quát; 3) Chướng ngại của ngôn ngữ; và 4) Chướng ngại của hiểu biết thống nhất và thực dụng. Có lẽ chúng đều đi đến từ rất sâu thẳm trong quá trình hình thành con người: nhận diện thế giới vật chất qua kinh nghiệm thực tiễn, mô tả nó qua ngôn ngữ rồi chịu ảnh hưởng ngược lại của ngôn ngữ, và khái quát hoá quá sớm.
Chương VI nói về 5) Chướng ngại duy thể chất, có lẽ đặc thù hơn trong một nền văn hoá tiếp thu từ Hy Lạp: bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của một thể chất. Người ta không đặt nặng hoặc chưa hình thành rõ rệt ý tưởng về hiện tượng như một quan hệ giữa các thực thể.
Trong bốn chương tiếp theo từ VII đến XI: 6) Phân tâm luận về người duy thực; 7) Chướng ngại vật linh; 8) Huyền thoại về sự tiêu hoá; và 9) Libido và hiểu biết khách quan; tác giả vận dụng những phương pháp của phân tâm học để nêu rõ tại sao có những sai lạc trong những tiếp cận mang tham vọng khoa học nhưng không đạt được tính khoa học cần thiết: đó là do ảnh hưởng bị giấu kín của những động lực có tính bản năng của con người, như bản năng chiếm lĩnh, sự phóng chiếu vật linh, bản năng đói, và libido.
Chương XI, 10) Những chướng ngại cho sự hiểu biết định lượng, đề cập đến hiện tượng định lượng hoá quá đà, thành vô nghĩa; mở rộng ra, đó là ý hướng tuyệt đối hoá việc áp dụng các quy luật khoa học. Có thể hiểu đây là trường hợp sự hiểu biết khoa học đã cũ có thể trở thành một chướng ngại cho một nhận thức khoa học mới.
*
Một đôi lời về "Lời phi lộ" của tác giả. Như ông đã viết trong chương "Đề cương": "Nhận thức về thực tại là một nguồn sáng luôn luôn phóng ra bóng tối ở một nơi nào khác", tác phẩm này chủ yếu nói về những vùng tối, vùng phủ bóng của những chướng ngại nhận thức. Ông xoáy mạnh vào giai đoạn lịch sử mà những chướng ngại sắp được vượt qua, nhưng ít khi trả lời câu hỏi: "vượt qua như thế nào?". Theo thiển ý, mỗi lần "vượt qua" là một hành động sáng tạo đặc thù không thể mô tả ngắn gọn, vượt qua chướng ngại để đến vùng sáng của khoa học cần những tác phẩm khác; "tinh thần khoa học là như thế nào?" chỉ được nhắc lại rất ngắn gọn trong tác phẩm này. "Lời phi lộ", và phần đầu của "Đề cương" làm công việc đó một cách rất súc tích, vì vậy tương đối khó nắm bắt. Có lẽ bạn đọc không quen với lịch sử khoa học không nên nản lòng, đoạn đầu của cuốn sách này cần được đọc trở lại nhiều lần trong khi đọc những chương sau, vùng tối của bức tranh có thể sẽ phần nào làm rõ nét hơn vùng sáng chăng.
Tuy nhiên, cũng cần biết thêm lịch sử khoa học về phía ánh sáng, để hiểu rõ hơn tác phẩm. Chẳng hạn, đoạn mở đầu của "Lời phi lộ" sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại câu nói của Gallilei có đại ý: "Tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán học". Ngay sau đó, "sự thiếu hụt" mà biểu hiện toán học có thể bao hàm, và "dẫn đến những quan hệ cơ bản sâu sắc hơn"... sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta lấy làm thí dụ thuyết tương đối hẹp đã nói tới ở trên. Mặc dù hai tiền bối Lorentz và Poincaré đã phát triển đại bộ phận mô hình toán học, nhưng họ vẫn đứng trong vùng phủ bóng của chướng ngại nhận thức, chướng ngại đó chính là khái niệm ête, mà người tuổi trẻ Einstein đã vượt qua bằng cách triệt tiêu hoàn toàn. Lorentz và Poincaré đã biết "cái như thế nào thuần hiện tượng" nhưng chỉ Einstein mới trả lời được về "cái tại sao toán học". Và đó là phê phán của Bachelard về thái độ thực chứng luận giáo điều, trước mọi hiện tượng vẫn rao giảng (đại ý) "khoa học chỉ trả lời câu hỏi: như thế nào? chứ không hề nói tại sao".[6]
*
Cuộc đời tự học và dạy trung học của Bachelard có ảnh hưởng không nhỏ đến các tác phẩm về khoa học luận của ông, nhất là trong tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học được dịch và giới thiệu ở đây. Đồng thời như ta đã thấy, đây cũng là một tác phẩm nối liền hai dòng tư duy của ông, tư duy phân tâm học về tổng thể con người cá thể, kể cả những ảnh hưởng vô thức, đứng trước thế giới; và tư duy khoa học chính xác, nhằm tiến đến hiểu biết duy lý về Hiện Thực. Tóm lại, có thể nói không tác phẩm nào "mang dấu ấn Bachelard" hơn tác phẩm này: nhà giáo, nhà phân tâm học, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử khoa học... bởi vậy, đây cũng là tác phẩm độc đáo nhất, không những của ông, mà còn của cả thư tịch khoa học luận.
Và nếu tư duy con người cá thể phát triển theo một mô hình thu nhỏ của lịch sử tư duy của loài người; thì những chướng ngại nhận thức mà Bachelard chỉ ra cho khoa học của thế kỷ 18 vẫn còn trong tâm lý con trẻ (và ít nhiều trong cả những người không có một hiểu biết vững vàng về tinh thần khoa học hiện đại) ngày nay. Do đó, tác phẩm của Bachelard không chỉ có giá trị nhận thức luận, mà nó còn có giá trị bổ túc kiến thức rất cụ thể cho ngành sư phạm, cho các thầy giáo tiểu học và trung học, cho các trách nhiệm truyền thông về khoa học. Tựa đề Sự hình thành tinh thần khoa học của tác phẩm phải được hiểu theo hai ý nghĩa, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa sư phạm.
Để kết thúc phần giới thiệu, xin nêu một hướng nghiên cứu có lẽ có ích và mới cho các nhà khoa học luận Việt Nam: trong các chướng ngại này, điều gì là phổ quát cho con người (thí dụ như libido)? Dĩ nhiên, ở đây nó mang một hình thức văn hoá Âu Tây đặc thù, vậy ở Á Đông nó mang những hình thức nào? Và điều gì tuỳ thuộc hẳn vào văn hoá Âu Tây? Như thế có chướng ngại nhận thức đặc thù nào tuỳ thuộc hẳn vào văn hoá Á Đông? Biểu hiện của những chướng ngại nhận thức có tính tiền khoa học này trong tư duy người Việt hiện nay cụ thể là những gì? Có lẽ đây không phải những câu hỏi viển vông.
*
Đến đây xin có vài ghi chú về dịch thuật: các chú thích đánh số 1, 2, 3 ở cuối trang là của tác giả, phần lớn ghi xuất xứ những trích dẫn nên người dịch đã chọn để nguyên văn tên các tác phẩm, sẽ có ích hơn nếu bạn đọc muốn tìm các tác phẩm đó để tra cứu. Những chú thích để trong ngoặc vuông là của người dịch, nếu rất ngắn thì viết thẳng trong ngoặc vuông, nếu dài hơn thì được quy chiếu theo thứ tự a, b, c... vào các giải thích ở cuối mỗi chương. Ngoài ra, so với bản in tiếng Pháp, người dịch đã lợi dụng những tiến bộ về in ấn để viết – những đoạn văn của các tác giả khác mà Bachelard trích dẫn – bằng một kiểu chữ khác, giúp bạn đọc dễ nhận ra.
Các từ đoạn tiếng Anh, tiếng Đức hay tiếng Latin mà tác giả viết trong nguyên bản được ghi lại rõ. Người dịch không có khả năng tiếng Đức nên đã được bạn bè giúp đỡ, khi người này khi người khác; các từ đoạn tiếng Latin hay tiếng Pháp cổ (nhiều khi không tìm thấy trong từ điển) đã được bạn đời Françoise Pair giải thích hộ; một số thuật ngữ triết học được học hỏi từ nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, với công trình dịch thuật triết học khả tín và lộng lẫy. Xin cảm ơn tất cả.
Với công việc hiệu đính của bạn cố tri Nguyễn Văn Khoa thì lời cảm ơn nhiều bao nhiêu cũng không đủ, do đó ít bao nhiêu cũng là thừa. Chỉ xin nói rằng, ngoài những khiếm khuyết còn lại mà người dịch hoàn toàn chịu trách nhiệm và mong được bạn đọc chỉ giáo thêm, bản dịch này đã được hoàn chỉnh rất nhiều nhờ người hiệu đính đã đọc bản thảo rất kỹ lưỡng, chỉ ra rất nhiều sơ suất.
Sau cùng, xin cảm ơn người biên tập Hoàng Thanh Thuỷ đã nhặt sạn hộ lần chót và xin có lời tạ lỗi với Nhà xuất bản Tri thức, vì sự "vỡ kế hoạch" không chỉ một lần với bản dịch này. Chỉ có thể xin nhà xuất bản và bạn đọc thông cảm trước một công việc quả thực "lực bất tòng tâm" đối với một người không chuyên, cả về ngôn ngữ lẫn triết học. Mong rằng, dù còn những khiếm khuyết về dịch thuật, cuốn sách này vẫn mang lại được một vài điều bổ ích cho sự nghiệp giáo dục khoa học tại Việt Nam.
HÀ DƯƠNG TUẤN
Bình luận